Chu trình chính sách công là gì?
Chu trình chính sách là gì? Quá trình chính sách là gì? Quy trình hoạch định chính sách là gì?
Chu trình chính sách công, hay Quá trình chính sách, Quy trình chính sách, và Quy trình hoạch định chính sách công là những cách gọi khác nhau để diễn tả về cách thức và các giai đoạn mà chính sách công được làm ra cho đến khi chấm dứt, hoặc thay đổi.
Một cách khái quát chung, chu trình chính sách công bao gồm một số giai đoạn chính như sau:
(1) Phát hiện vấn đề nảy sinh đời sống xã hội – Hay còn gọi là: Xác định vấn đề/Định nghĩa vấn đề chính sách;
(2) Đưa vào chương trình nghị sự, hay lập chương trình nghị sự;
(3) Tìm kiếm, đề xuất các giải pháp – các lựa chọn chính sách;
(4) Chính sách được chấp nhận thông qua – Thông qua chính sách;
(5) Thực thi chính sách;
(6) Đánh giá và (có thể) kết thúc chính sách.
Những lưu ý
a. Điểm đáng chú ý đầu tiên, là chu trình/quy trình này không có sự thống nhất chung, mà có thể có sự khác nhau trong cách phân chia giai đoạn giữa các học giả, cả trong nước và quốc tế. Trong thực tiễn thực hành chính sách ở nhiều quốc gia thì không phải lúc nào cũng (cần) tuân thủ đúng quy trình lý thuyết, hay phải gọi đúng tên/khái niệm của từng giai đoạn. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc xem nhẹ các bước phân tích, đánh giá, lựa chọn đúng vấn đề chính sách và giải pháp chính sách phù hợp, cũng như sự cần thiết tham khảo các bằng chứng khoa học, trên nền tảng thực tiễn sinh động của đời sống xã hội.
Trong giai đoạn (3) của quy trình nói trên, Đề xuất giải pháp/lựa chọn chính sách: Cũng có trường hợp một số nhà nghiên cứu gộp vào với giai đoạn (1), nghĩa là khi đã xác định vấn đề thì đồng thời đề xuất giải pháp cho vấn đề đó. Và (các học giả đó) có thể gọi riêng đây là giai đoạn phân tích chính sách.
Cũng có thể nhiều học giả khác sẽ gộp luôn cả giai đoạn (1), (2) và (3), hoặc thậm chí gộp cả 4 giai đoạn đầu tiên của chu trình chính sách công nói trên, để cùng diễn tả việc làm ra một (dự thảo) chính sách hoàn chỉnh, với rất nhiều khái niệm được sử dụng (với ý nghĩa tương tự nhau), đó là: Hình thành chính sách/ Thiết kế chính sách/ Xây dựng chính sách/ Hoạch định chính sách/ Làm chính sách…);
Chính vì vậy, thuật ngữ “quy trình hoạch định chính sách” cũng có thể được sử dụng với ý nghĩa chỉ bao gồm một số giai đoạn như trên (1, 2, 3, và/hoặc 4), mà không phải toàn bộ chu trình chính sách (cách hiểu này khá phổ biến ở Việt Nam). Nói cụ thể hơn, có quan điểm sẽ phân biệt giữa “Quy trình hoạch định chính sách” với “Quy trình chính sách”: Đó là, Quy trình chính sách (hay Chu trình chính sách) bao gồm trong nó Quy trình hoạch định chính sách, và cả giai đoạn thực thi, đánh giá, kết thúc chính sách.
- Tham khảo thêm: Hoạch định chính sách ở Việt Nam: Một số vấn đề cần lưu ý
- Nội dung mới cập nhật: Hoạch định chính sách trong hoạt động lập pháp
b. Có thể có những nghiên cứu phân chia “vòng đời” chính sách công theo 6 giai đoạn như trên (hay tương tự);
– hoặc rút ngắn thành 5 giai đoạn (chẳng hạn, đưa việc xác định vấn đề vào chung với việc lập chương trình nghị sự), và thứ tự hay tên gọi các giai đoạn có thể khác nhau, ví dụ như việc tách riêng thành 2 giai đoạn với tên gọi là (3) Hình thành chính sách, với (4) Thông qua chính sách;
– hoặc thậm chí chia nhỏ thành nhiều hơn 6 giai đoạn, ví dụ như có cả việc Đánh giá chính sách trước khi được thông qua, giai đoạn xem xét/đánh giá về ngân sách công dành cho việc triển khai thực thi chính sách nếu được thông qua…
Có thể thấy, dù phân chia thế nào, những “thuật ngữ chính sách” này cũng đều nhằm diễn tả/mô tả quá trình với những giai đoạn quan trọng mà chính sách công được hình thành, thông qua và thực thi trong cuộc sống thực tiễn.
c. Quá trình/chu trình chính sách này được thống nhất là có sự lặp lại/khép kín/mang tính liên tục là để nhấn mạnh theo nghĩa: một chính sách sau khi được triển khai Thực thi thì sẽ được Đánh giá và từ đó, có thể là sự Kết thúc chính sách; hoặc lại thấy được những vấn đề mới phát sinh và đòi hỏi phải có giải pháp mới, dẫn đến hình thành chính sách mới (hoặc là sự sửa đổi, bổ sung những chính sách hiện có cho phù hợp với điều kiện mới).
Như vậy thì việc kết thúc, chấm dứt hoàn toàn một chính sách trên thực tế sẽ ít hơn (thường là những giải pháp được quy định cụ thể để điều chỉnh một lĩnh vực cụ thể) nếu so sánh với việc sửa đổi, bổ sung và ban hành những chính sách “được làm mới”.
d. Một điểm lưu ý nữa là vẫn có những “phê bình” là chu trình chính sách này lại thực ra không liên tục, có sự cắt khúc và mang tính “cơ học” giữa các giai đoạn. Có nghĩa là việc phân chia thành các giai đoạn như trên không diễn tả được sự vận động liên tục, tương tác lẫn nhau của các chủ thể tham gia vào quy trình hoạch định chính sách này.
Tuy nhiên, nếu muốn “vẽ ra” được một sơ đồ vừa thể hiện được sự “liên tục” theo yêu cầu, lại vừa có “chiều sâu” thì sẽ phức tạp hơn rất nhiều; và chúng ta sẽ khó có được một chu trình chính sách công với những giai đoạn đơn giản, trực quan và dễ hiểu, làm sự khởi đầu cho nghiên cứu khoa học chính sách.
Nguyễn Anh Phương 2020, Chu trình chính sách công, quy trình hoạch định chính sách, quá trình chính sách, https://chinhsach.vn/chu-trinh-chinh-sach-cong-quy-trinh-hoach-dinh-chinh-sach-qua-trinh-chinh-sach/.
Tài liệu tham khảo
Kingdon, J (2011), Agendas, Alternatives, and Public Policies, 2nd ed., New York: Pearson.
Kraft, M & Furlong, S (2015), Public policy: politics, analysis, and alternatives, 5th ed, CQ Press.
Nguyễn Anh Phương (2016), “Quy trình chính sách và phân tích chính sách trong hoạt động lập pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 02+03 (306+307), tr.80-90.
Sabatier, P (2007), Theories of the Policy process, Westview Press.
The Oxford handbooks of public policy, eds by Michael Moran, Martin Rein & Robert Good, Oxford University Press.
[…] Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, cần phân biệt rất rõ: khi nào hoạch định chính sách được hiểu như là một giai đoạn như nói trên; và khi nào, với ý nghĩa là một quá trình (policy making process), bao gồm các giai đoạn khác nhau trong chu trình chính sách. […]