Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng trong quá trình cải cách, chuyển đổi kinh tế. Vì vậy, qua cách tiếp cận nghiên cứu thực trạng và khuyến nghị giải pháp cho quá trình chuyển đổi ở Trung Quốc trong giai đoạn mới, có tham khảo các nghiên cứu đa chiều từ các học giả phương Tây và Trung Quốc, bài viết này đồng thời có thể gián tiếp cung cấp những kinh nghiệm có ích cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hơn ba thập kỷ tăng trưởng liên tục với tốc độ cao đã giúp Trung Quốc trở thành một trong những nền kinh tế hàng đầu thế giới[1]. Trung Quốc đã có những thành công trong chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá, sang thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc.
Phương pháp chuyển đổi của Trung Quốc, mà trọng tâm là cải cách thể chế, có nhiều điểm khác biệt với lý thuyết phương Tây[2]. Điều này đặt ra câu hỏi, việc cải cách, xây dựng thể chế có vai trò như thế nào? Các giải pháp điều chỉnh, cải cách trong giai đoạn tiếp theo ở Trung Quốc là gì?
Từ cách tiếp cận thể chế, bài viết này khẳng định, cải cách thể chế đã, đang và tiếp tục là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành công trong quá trình chuyển đổi kinh tế ở Trung Quốc. Cải cách thể chế, đặc biệt là thể chế kinh tế, đã góp phần quan trọng giải phóng tiềm năng kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng. Trong giai đoạn hiện nay, trước những vấn đề kinh tế xã hội tác động tiêu cực đến chất lượng tăng trưởng, quá trình cải cách, xây dựng thể chế ở Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản cần tiếp tục đẩy mạnh theo cơ chế thị trường đặc sắc Trung Quốc. Trong đó, cải cách thể chế kinh tế nên chủ động gắn với yêu cầu thúc đẩy cải cách thể chế chính trị một cách hài hoà, phù hợp để Trung Quốc có thể phát triển bền vững.
Chuyển đổi và thể chế
Chuyển đổi
Nghiên cứu lý thuyết phương Tây cho rằng, chuyển đổi là quá trình trong đó các quốc gia có áp dụng mô hình nền kinh tế quản lý trung ương tập quyền, mệnh lệnh hành chính, sở hữu nhà nước chiếm ưu thế, với các động lực khuyến khích phi vật chất (non-material incentives), chuyển sang hệ thống kinh tế thị trường, trong đó cơ chế kinh tế thị trường phát triển, kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng, bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, và với động lực là các khuyến khích vật chất (self-serving material incentives)[3]. Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi là thu nhập thấp, kinh tế tăng trưởng nhanh, trong khi hệ thống pháp luật chưa phát triển và chưa đầy đủ để bảo vệ các quyền về tài sản[4]; nền kinh tế định hướng thị trường nhưng quan hệ thị trường chưa hoàn thiện. Quá trình chuyển đổi, về lý thuyết, sẽ dẫn tới hình thành nền kinh tế có đầy đủ đặc trưng kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi có hiệu quả, khả thi và thành công phụ thuộc vào điều kiện đặc thù về kinh tế, chính trị, văn hóa của mỗi quốc gia. Nóng vội áp dụng ngay quan hệ thị trường thay thế cho hệ thống quản lý trung ương tập quyền có thể dẫn đến những vấn đề tiêu cực, bởi nó bỏ qua sự biến đổi quan hệ xã hội cần thiết. Kinh nghiệm chuyển đổi theo ‘liệu pháp sốc’ (shock therapy) ở các nước Đông Âu và Nga cho thấy, sự không thành công của quá trình chuyển đổi dẫn đến những bất ổn về mặt xã hội, như bất bình đẳng thu nhập cao, kinh tế tăng trưởng chậm, giảm hiệu quả đầu tư[5]. Nhìn từ góc độ thể chế, không nên xem nhẹ yếu tố ổn định xã hội; và nhu cầu cần thiết xây dựng một thể chế mới cần thích ứng với điều kiện chuyển đổi, đặt trong mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với các nhân tố văn hóa xã hội[6]. Do đó, chuyển đổi kinh tế cần đặt trong mối quan hệ chính trị, xã hội; bao quát từ góc nhìn thể chế. Chuyển đổi kinh tế, sau cùng là (vấn đề thuộc về) kinh tế chính trị[7].
Thể chế
Nhà kinh tế Douglass North định nghĩa thể chế là những quy tắc, luật lệ của ‘trò chơi’ trong xã hội. Nói cách khác, nó là những ràng buộc được tạo ra để định hình cách thức tương tác của con người[8]. Cụ thể hơn, khái niệm thể chế liên quan đến cơ chế cơ bản và bền vững, quản trị, chi phối động lực và hành vi hợp tác của các chủ thể trong “cuộc chơi lớn về chính trị và kinh tế” (political and economic games)[9]. Theo quan điểm của Ahrens và Mengeringhaus, thì thể chế không đơn giản chỉ là chế độ chính trị của một quốc gia[10]. Mối quan hệ giữa nhà nước và khu vực tư nhân cũng thể hiện sự đa dạng của thể chế, và là yếu tố quan trọng trong hoạch định chính sách. Đây là một trong những chìa khoá cho sự thành công của quá trình chuyển đổi.
Tương tự, Acemoglu và Robinson[11] cho rằng, thể chế không chỉ giới hạn trong bản hiến pháp thành văn, hoặc mức độ dân chủ của xã hội; Nó bao gồm cả quyền lực và khả năng mà nhà nước điều hành, phân bổ sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế và quản lý xã hội. Hơn nữa, thể chế liên quan đến cách thức mà quyền lực chính trị tác động đến xã hội và cơ chế hoạt động, hợp tác giữa các nhóm khác nhau trong xã hội. Một cách ít trừu tượng hơn, Bromley và Yao giải thích thể chế là những nền tảng pháp lý của kinh tế[12]. Trong đó, cá nhân có quyền được, hoặc không được làm gì. Như vậy, khi xem xét thể chế, điều đặc biệt quan trọng là xem xét cả khía cạnh chính trị và kinh tế.
Thể chế kinh tế và thể chế chính trị có mối liên hệ mật thiết. Thể chế kinh tế định hình các động lực kinh tế, như hoạt động đầu tư, tiết kiệm, hay ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Tuy nhiên, việc quyết định TCKT đó ra sao, lại là một quá trình chính trị. Và quá trình này được quyết định bởi TCCT[13]. Mặt khác, những thay đổi điều kiện, tình trạng kinh tế và các yếu tố thị trường cũng dần dẫn đến sự thay đổi cấu trúc nhà nước, tác động tới thể chế chính trị. Điều này được thể hiện rất rõ đối với quá trình xây dựng thể chế ở các quốc gia Đông Âu[14]. Bên cạnh đó, theo Acemoglu và Robinson, có hai loại thể chế đặc trưng, là thể chế khai thác (loại trừ), và thể chế bao gồm (dung hợp). Trong đó, có thể tham khảo các đặc trưng của thể chế bao gồm, như tôn trọng nhà nước pháp quyền, đề cao trách nhiệm giải trình, khuyến khích trao quyền cho số đông, và có xu hướng chống lại những hoạt động thị trường chỉ làm lợi cho một số nhóm lợi ích. Quốc gia (trở nên) thịnh vượng khi thể chế chính trị và thể chế kinh tế đều (hướng tới) là bao gồm[15]. Như vậy, mối quan hệ giữa TCKT và TCCT có tính hai chiều, trong đó, TCCT quyết định TCKT, và TCKT cũng tác động trở lại đến quá trình cải cách TCCT… [đọc tiếp]
Xem phần 2
Xem: phần 3
Nguyễn Anh Phương
Chú thích:
[1] The Economist 2014, The world’s biggest economies China’s back, <http://www.economist.com/news/finance-and-economics/21623758-chinas-back>, truy cập ngày 25/8/2015.
[2] Ahrens, J, Mengeringhaus, P 2006, ‘Institutional change and economic transition: Market-enhancing governance: Chinese style’, EJCE, vol. 3, no. 1, pp. 75-102.
[3] Marangos, J 2011, ‘Social change versus transition: The political economy of institutions and transitional economies’, For Soc Econ, no. 40, pp. 119–137.
[4] Xie, C 2011, Economic transition and business risks in Chinese private firms: Disentangling organizational and project risks, The International Business & Economics Research Journal; vol. 10, no. 2, pp. 101-111.
[5] Xem chú thích 3 – Marangos 2011.
[6] Stanfield, J 1998, ‘The place of economy in society with some notes on the transitional economies’, Kobe-Gakuin Economics Papers, vol. 29, no. 4, pp. 18.
[7] Stanfield, J 1979, Economic thought and social change, Southern Illinois University Press, p. 154
[8] North, D 1990, Institutions, institutional change and economic performance, Cambridge University press, New York.
[9] Xu, C 2011, The fundamental institutions of China’s reforms and development, Journal of Economic Literature 2011, 49:4, 1076–1151.
[10] Xem chú thích 2 – Ahrens, Mengeringhaus 2006.
[11] Acemoglu, D & Robinson, J 2012, Why nations fail: the origins of power, prosperity, and poverty, New York.
[12] Bromley, D, Yao, Y 2006, Understanding China’s economic transformation: Are there lessons here for the developing world?, World Economics, vol. 7, no. 2, pp.73-95.
[13] Tisdell, C 2009, ‘Economic reform and openness in China: China’s development policies in the last 30 Years, Working Paper No. 55, Economic Theory, Applications & Issues.
[14] Xem chú thích 3 – Marangos 2011.
[15] Xem chú thích 11 – Acemoglu & Robinson 2012.
[…] (Tiếp theo) Xem phần 1 […]