Quyền trẻ em và phòng chống tác hại của thuốc lá ở Việt Nam hiện nay
Lạm dụng lao động trẻ em trong việc sản xuất thuốc lá, hay nguy cơ tác động tiêu cực đến sức khoẻ của trẻ em do hút thuốc lá thụ động, sử dụng thuốc lá điện tử, thuốc lá làm nóng… là minh chứng cho thấy quá trình sản xuất và tiêu thụ thuốc lá có thể dẫn tới việc vi phạm quyền của trẻ em. Trong phạm vi bài viết, tác giả cũng chỉ ra một số nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng sử dụng thuốc lá ở trẻ em, từ đó đề ra những giải pháp nhằm phòng chống tác hại của thuốc lá ở nước ta nói chung, đối với trẻ em nói riêng; bảo đảm quyền của trẻ em được sinh sống và phát triển lành mạnh trong môi trường không khói thuốc, và góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
Trong Lời mở đầu của Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em đã ghi rõ: Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, có quyền được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi trưởng thành. Kể từ khi phê chuẩn Công ước đến nay, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em, giúp cải thiện cuộc sống của hàng triệu trẻ em trên cả nước. Tuy nhiên, tiếp cận công tác phòng chống tác hại thuốc lá từ góc độ quyền trẻ em có thể bị vi phạm do việc sản xuất và sử dụng thuốc lá, thì sự gia tăng và xu hướng trẻ hóa sử dụng các sản phẩm “thuốc lá thế hệ mới” ở thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay[1] là vấn đề đáng lo ngại, gây ra nhiều hệ lụy đến sức khỏe, kinh tế của hộ gia đình và cả phạm vi quốc gia[2],[3]. Kiểm soát thuốc lá nói chung, và tác hại của thuốc lá đối với trẻ em nói riêng, vẫn là vấn đề chính sách cần sớm có giải pháp quyết liệt, thiết thực và cụ thể.
1. Một số tác hại của thuốc lá đến trẻ em
– Tác hại do trẻ em trực tiếp hút thuốc lá
Tác hại đối với trẻ em hút thuốc lá trực tiếp là nghiêm trọng và kéo dài, có nguy cơ cao dễ mắc phải nhiều nhóm bệnh có nguyên nhân từ thuốc lá hơn. Thêm vào đó, việc sử dụng thuốc lá ở độ tuổi thanh thiếu niên, trong giai đoạn còn lệ thuộc bố mẹ, gia đình về kinh tế, hoặc trẻ ở trong nhóm gia đình có thu nhập thấp – trung bình, gia đình có nhiều người hút thuốc… thì các tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ thuốc lá, bệnh tật do hút/nghiện thuốc lá còn ở mức độ trầm trọng hơn, góp phần tạo thêm gánh nặng cho gia đình, nhà trường và xã hội cả trong ngắn hạn và dài hạn[4].
Trong một số nghiên cứu gần đây ở Việt Nam, mặc dù tỷ lệ thanh thiếu niên hút thuốc có xu hướng giảm nhẹ, nhưng tỷ lệ thanh thiếu niên có sử dụng các sản phẩm thuốc lá thế hệ mới, thuốc lá điện tử lại có xu hướng tăng lên. Trẻ em sử dụng thuốc lá điện tử cũng dễ chuyển sang sử dụng các sản phẩm thuốc lá khác… Đây là vấn đề mang tính thời sự, thu hút sự quan tâm chú ý của dư luận, nhưng chưa thực sự có giải pháp hiệu quả để giải quyết những vấn đề chính sách và hệ quả phát sinh cho gia đình và xã hội trong giai đoạn hiện nay[5].
– Người lớn hút thuốc lá gây tác hại đến sức khỏe của trẻ em
Đã có nhiều nghiên cứu khoa học với những bằng chứng cụ thể, chỉ ra các tác hại của khói thuốc lá đối với trẻ em dù không trực tiếp hút thuốc[6], cả giai đoạn trước và sau khi sinh ra, do cơ thể vẫn đang trong giai đoạn chưa phát triển hoàn thiện và sức đề kháng chưa cao. Mặc dù trẻ em hút thuốc lá thụ động (secondhand smoke – SHS, hoặc environmental tobacco smoke – ETS) nhưng vẫn có nguy cơ lớn bị mắc các bệnh liên quan đến phổi, hen suyễn, bệnh hô hấp mãn tính, thậm chí là các bệnh liên quan đến gan, suy giảm miễn dịch, ung thư, hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh[7]… Ngoài ra, khi trẻ em đã được “làm quen” với khói thuốc lá ngay từ nhỏ và trong thời gian dài thì cũng rất dễ hút thuốc và nghiện thuốc lá khi trưởng thành. Điều này sẽ làm giảm hiệu quả nỗ lực tuyên truyền phòng chống tác hại của thuốc lá.
– Lãng phí nguồn lực, cơ hội phát triển
Trong khi số người hút thuốc lá ở nhóm có thu nhập thấp và trung bình chiếm tỷ trọng lớn trong xã hội[8], thì chi phí dành cho việc sử dụng thuốc lá thường xuyên sẽ chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong ngân sách gia đình. Điều này thực sự có ảnh hưởng giảm đáng kể các khoản chi khác cho trẻ em, đáng lẽ nên được bố mẹ quan tâm hơn, như chi cải thiện dinh dưỡng, giáo dục, du lịch, vui chơi giải trí lành mạnh… để trẻ có cơ hội phát triển toàn diện.
2. Quyền trẻ em có thể bị vi phạm do thuốc lá
Bảo vệ, chăm sóc trẻ em là vấn đề có tính chiến lược lâu dài, nhằm phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tương lai của đất nước. Khoản 1 Điều 3 Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em nêu rõ: “Trong mọi hoạt động liên quan tới trẻ em, dù được thực hiện bởi các cơ quan phúc lợi xã hội của nhà nước hay tư nhân, bởi tòa án, các nhà chức trách hành chính hay cơ quan pháp luật, thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu”.
Bên cạnh Công ước về quyền trẻ em, thì Chương trình Nghị sự 2030 của Liên hợp quốc[9] đã xác định 17 Mục tiêu toàn cầu về Phát triển bền vững, là một khung chính sách phát triển bền vững tích hợp, toàn diện, rộng mở và làm cơ sở để các quốc gia tham khảo, điều chỉnh một số tiêu chí cho phù hợp với tình hình thực tế mỗi nước. Trong đó, có những mục tiêu trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến sự phát triển của trẻ em. Đáng chú ý, tại mục tiêu phát triển số 3: Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi, đã đặt ra tiêu chí 3.A là: Tăng cường thực thi Công ước khung của Tổ chức Y tế Thế giới về Kiểm soát thuốc lá[10] tại tất cả các quốc gia một cách phù hợp.
Điều 3 của Công ước về Kiểm soát thuốc lá là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện các chương trình kiểm soát thuốc lá một cách toàn diện[11]. Bởi vì thuốc lá gây ra nhiều tác hại nguy hiểm cho trẻ em, các quốc gia cần phải hành động nhằm bảo vệ trẻ em trước sự tấn công của thuốc lá, mục tiêu bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ cần được đặt lên hàng đầu, ưu tiên hơn so với nghành công nghiệp thuốc lá[12].
Thời gian qua, liên quan đến quyền trẻ em và công tác phòng chống tác hại thuốc lá, Nhà nước Việt Nam đã tích cực nội luật hóa các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, hình thành được hệ thống chính sách, pháp luật đồng bộ, toàn diện nhằm bảo đảm hiệu lực thực thi các quyền của trẻ em nói chung, cũng như bảo vệ quyền trẻ em bị vi phạm do liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản xuất và sử dụng thuốc lá. Điều 37 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em có quyền được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Luật Trẻ em được ban hành năm 2016, có hiệu lực từ ngày 01/6/2017, thay thế cho Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá được ban hành năm 2012; và gần đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2020/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực y tế, Nghị định số 98/2020/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đã quy định nghiêm khắc, chặt chẽ hơn việc xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến thuốc lá…
Có thể thấy, phòng chống tác hại của thuốc lá không chỉ là một hoạt động y tế công cộng quan trọng, mà còn là một trong những nội dung, biện pháp để bảo vệ quyền trẻ em. Trẻ em có quyền được bảo vệ, phòng chống tác hại của thuốc lá, tác động tiêu cực đến cả đời sống vật chất và tinh thần; Trẻ em có quyền được biết, được cung cấp, tiếp cận thông tin về thuốc lá và tác hại của thuốc lá; Có quyền tránh làm các công việc độc hại ở các công ty thuốc lá; Quyền được sinh sống, học tập và phát triển trong một môi trường lạnh mạnh không khói thuốc…
Như vậy, việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thuốc lá có thể ảnh hưởng tiêu cực, nghiêm trọng, vi phạm quyền trẻ em. Các tác hại trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cho trẻ em từ việc hút thuốc lá hoặc hút thuốc lá thụ động làm ảnh hưởng tới quyền được chăm sóc sức khoẻ[13], được có mức sống thích đáng để phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội[14], quyền được giáo dục[15], vui chơi, giải trí[16], được bảo vệ không bị bóc lột về kinh tế và không phải làm bất kỳ công việc gì nguy hiểm hoặc ảnh hưởng đến việc học hành của trẻ em, hoặc có hại đối với sức khỏe hay sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức hay xã hội của trẻ em[17].
Mặt khác, các hình thức quảng cáo sản phẩm thuốc lá hướng đến đối tượng thanh thiếu niên, làm cho trẻ em phải sống trong môi trường khói thuốc, hút thuốc lá thụ động là vi phạm quyền được sống[18], quyền tiếp cận thông tin[19], quyền được bảo vệ từ các chất gây nghiện[20]…
Cùng với đó, quá trình sản xuất và sử dụng thuốc lá có thể cản trở việc hiện thực hoá nhiều Mục tiêu phát triển bền vững 2030[21], như Xóa mọi hình thức nghèo (mục tiêu 1); Xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và phát triển nông nghiệp bền vững (mục tiêu 2); Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh, tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi (mục tiêu 3); Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn, bền vững, toàn diện, tạo việc làm đầy đủ, năng suất và công việc tốt cho tất cả mọi người (mục tiêu 8)…
Chính vì vậy, nhằm góp phần bảo đảm quyền trẻ em không bị vi phạm do thuốc lá, Tổ chức Y tế thế giới từ lâu đã khuyến nghị Chính phủ các quốc gia cần cung cấp, chia sẻ thông tin về các biện pháp hành pháp, các chế tài đã được thực hiện để ngăn chặn trẻ em sử dụng thuốc lá và các chất gây nghiện khác có ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ em, đồng thời đánh giá tính hiệu quả của các chế tài đó[22].
3. Một số nguyên nhân làm gia tăng sử dụng thuốc lá ở trẻ em
Mỗi cá nhân có thể có các lý do khác nhau để giải thích (hoặc biện hộ) cho việc sử dụng thuốc lá. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập khái quát một số nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp làm gia tăng tỷ lệ trẻ em sử dụng thuốc lá, nhất là các sản phẩm thuốc lá thế hệ mới ở nước ta thời gian qua, đó là:
– Việc thực thi quy định cấm bán thuốc lá cho người dưới 18 tuổi chưa nghiêm. Thuốc lá vẫn có thể được mua bán dễ dàng ở các cửa hàng nước, các hàng tạp hoá trước hoặc gần cổng trường… Điều này làm tăng khả năng tiếp cận thuốc lá từ sớm đối với trẻ em. Đặc biệt là đối với các sản phẩm thuốc lá thế hệ mới, thanh thiếu niên có thể dễ dàng đặt mua qua mạng Internet thông qua các sàn giao dịch thương mại điện tử;
– Vẫn có nhiều hình thức quảng cáo thuốc lá hướng đến trẻ em. Một số công ty hoặc cá nhân tham gia vào quy trình sản xuất, buôn bán, nhập khẩu, phân phối thuốc lá đã sử dụng phương thức quảng cáo “lách luật” một cách kín đáo, hay cố tình quảng cáo gần trường học, gần công viên, các địa điểm du lịch… có trẻ em đi cùng gia đình. Hơn nữa, việc quảng cáo có thể dễ dàng truyền tải qua mạng xã hội, với thông điệp ẩn liên quan đến thuốc lá… Thế hệ trẻ nhanh nhạy trong việc tiếp nhận công nghệ, nhưng cũng dễ bị lôi kéo vào việc xem, phát tán thông tin quảng cáo, khuyến mại và sử dụng thử các sản phẩm thuốc lá;
– Giá nhiều sản phẩm thuốc lá còn thấp, nhiều trẻ em, thanh thiếu niên có thể dễ dàng mua được;
– Các sản phẩm thuốc lá điện tử, thuốc lá làm nóng… chưa được quản lý chặt chẽ, hàng nhập lậu vẫn xuất hiện trên thị trường trong nước, lại dễ tiếp cận và sử dụng công khai, sản phẩm, mùi vị đa dạng nên đã thu hút giới trẻ. Trong khi đó, chưa có nhiều nghiên cứu chỉ rõ mức độ nguy hại của các sản phẩm này đến sức khoẻ trẻ em ở nước ta; thậm chí, đã xuất hiện hình thức trà trộn chất gây nghiện, ma tuý tổng hợp trong sản phẩm thuốc lá điện tử[23]…
– Tương tác qua mạng xã hội đã góp phần hình thành một xu hướng tiêu cực trong giới trẻ là “đua đòi” thử hút thuốc lá, nhất là đối với các sản phẩm thuốc lá thế hệ mới nhằm chứng tỏ sự trưởng thành, gây chú ý, hoặc tâm lý thử cho biết, bất chấp sự nguy hại cho sức khoẻ và trí lực.
– Ảnh hưởng của việc hút thuốc lá thụ động trong gia đình, khu dân cư, nhà trường, nơi công cộng… Tác động từ hình ảnh người lớn hút thuốc lá và sống trong môi trường ô nhiễm khói thuốc cũng làm cho trẻ em có tâm lý muốn thử hút thuốc lá từ sớm, thấy việc hút thuốc lá là bình thường do có nhiều người lớn vẫn “vô tư” lan truyền các thông tin, hình ảnh sử dụng thuốc lá, hoặc vi phạm quy định tại các địa điểm cấm hút thuốc.
4. Đề xuất một số giải pháp
Có nhiều cách tiếp cận, phân loại giải pháp phòng chống tác hại của thuốc lá, tựu trung lại là nhằm: kiểm soát, tác động đến nguồn cung cấp thuốc lá, và kiểm soát, giảm thiểu việc sử dụng các sản phẩm thuốc lá. Mặc dù có những đặc thù nhất định, phụ thuộc vào tâm lý, tính cách, ý thức, trách nhiệm, bổn phận của trẻ em, nhưng để việc bảo đảm thực thi quyền trẻ em hiệu quả cần gắn kết trong một chiến lược tổng thể chung, khung chính sách toàn diện vì môi trường không khói thuốc, nhằm kiểm soát, phòng chống hiệu quả, giảm thiểu tác hại của thuốc lá ở nước ta. Sự thành công của các giải pháp, từ góc độ tiếp cận về quyền trẻ em, cũng lại phụ thuộc rất nhiều vào chính gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội, vào môi trường sống của trẻ em, có hay không có khói thuốc mỗi ngày.
– Tăng cường các biện pháp kiểm soát nguồn cung thuốc lá
Cần có chiến lược quy hoạch theo hướng kiểm soát, hạn chế việc đầu tư sản xuất và kinh doanh thuốc lá; các doanh nghiệp, địa phương trồng và sản xuất nguyên liệu, sản phẩm thuốc lá trong nước định kỳ cần có nghiên cứu đánh giá tác động đến sức khoẻ người dân cũng như với môi trường xung quanh, gắn với các tiêu chí bảo vệ môi trường; đồng thời kiểm soát chặt chẽ các nguồn cung khác; Đặc biệt là có các quy định rõ ràng để quản lý hạn chế hoặc nghiêm cấm cung cấp các sản phẩm thuốc lá thế hệ mới, còn đang gây tranh cãi hiện nay[24]. Cùng với đó, cần quy định rõ và thực thi, xử phạt nghiêm các hành vi sử dụng lao động trẻ em trái pháp luật trong sản xuất, kinh doanh thuốc lá…
– Tăng mạnh thuế tiêu thụ đặc biệt với mặt hàng thuốc lá
Một giải pháp không mới, nhưng có hiệu quả cao, đã có nhiều bằng chứng khẳng định ở nhiều quốc gia, là chính sách tăng giá các sản phẩm thuốc lá thông qua biện pháp tăng thuế làm giảm đáng kể việc sử dụng thuốc lá. Thuế suất cao hơn thường dẫn tới tăng giá thuốc lá, đánh trực tiếp vào “túi tiền” của người tiêu dùng, dẫn tới một bộ phận người hút thuốc lá không đáp ứng được nhu cầu hàng ngày phải giảm số lượng điếu hút hoặc bỏ hẳn thuốc lá, đồng thời góp phần ngăn chặn một bộ phận bắt đầu hút thuốc.
Biện pháp thuế đặc biệt có hiệu quả trong việc ngăn chặn hút thuốc ở thanh thiếu niên, thế hệ tương lai của đất nước, vì lứa tuổi này ít có điều kiện mua thuốc lá hơn do còn phụ thuộc về kinh tế, tài chính, và do đó, giảm thiểu được nguy cơ bệnh tật hoặc tử vong sớm do thuốc lá gây ra[25]. Bởi lẽ, nếu giá thuốc lá tăng khoảng 10% thì sẽ làm giảm tiêu thụ thuốc lá khoảng 10% hoặc nhiều hơn ở nhóm trẻ tuổi[26]. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đánh giá việc tăng giá và thuế thuốc lá là một trong những chính sách quan trọng nhất để kiểm soát tiêu dùng, giảm cầu tiêu thụ thuốc lá[27]. Ở Việt Nam, với một nửa dân số đang ở độ tuổi dưới 30, ước tính với mức thuế tăng thêm 5,000 đồng cho mỗi bao thuốc sẽ giúp giảm 1,8 triệu người hút thuốc, và sẽ giúp tránh được tử vong sớm cho khoảng 1 triệu người[28].
Bên cạnh lợi ích cơ bản là làm giảm tiêu thụ thuốc lá, qua đó giảm số người bệnh tật, tử vong và gánh nặng kinh tế do thuốc lá, việc tăng thuế thuốc lá về tổng thể còn giúp tăng thu ngân sách cho Nhà nước. Chính vì vậy, tăng thuế được xem là một giải pháp chính sách ưu tiên, có lợi đôi đường: lợi cho sức khỏe người dân và lợi cho ngân sách nhà nước. Khoản 2 Điều 4 Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá năm 2012 cũng đã quy định áp dụng chính sách thuế phù hợp để giảm tỷ lệ sử dụng thuốc lá. Tuy nhiên, mức thuế suất thuốc lá ở Việt Nam vẫn còn thấp và chưa phát huy hết hiệu quả thực tế[29]. Điểm cần lưu ý, là chính sách thuế chỉ thực sự thành công khi triển khai đồng bộ các giải pháp khác trong chiến lược chung về phòng chống tác hại của thuốc lá, bảo vệ quyền trẻ em và đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
– Kiểm soát chặt việc thực hiện quy định cấm quảng cáo và khuyến mại các sản phẩm thuốc lá
Khoản 2 Điều 9 Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá năm 2012 quy định nghiêm cấm hành vi quảng cáo, khuyến mại thuốc lá; tiếp thị thuốc lá trực tiếp tới người tiêu dùng dưới mọi hình thức. Cũng tại Điều 9, khoản 8 có quy định cấm sử dụng hình ảnh thuốc lá trên báo chí, xuất bản phẩm dành riêng cho trẻ em. Tuy nhiên, việc thực thi những quy định trên trong thời gian qua vẫn còn chưa triệt để, thậm chí “lúng túng” trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến các sản phẩm thuốc lá thế hệ mới. Trên thực tế, ở nhiều nước trên thế giới cũng vẫn còn tình trạng các nhà sản xuất thuốc lá “lách luật” để quảng cáo thuốc lá một cách “tinh vi”, có nhiều nội dung hướng tới đối tượng thanh thiếu niên, đặt các biển quảng cáo thuốc lá gây chú ý tại những vị trí gần trường học, khu vui chơi giải trí… thu hút trẻ em[30].
Vì vậy, đặc biệt là trong thời đại công nghệ số hiện nay, thì Nhà nước cần thực thi quy định xử phạt vi phạm rõ ràng, cụ thể và nghiêm minh; Yêu cầu các nền tảng mạng xã hội trong nước và xuyên quốc gia phải chủ động kiểm soát các hình thức quảng cáo, khuyến mại thuốc lá “trá hình”, nhất là những nội dung nhắm vào thanh thiếu niên, thế hệ trẻ dễ tiếp cận với máy tính, điện thoại di động thông minh hay các phần mềm sử dụng trí tuệ nhân tạo… Các nền tảng mạng xã hội, trang web, trang thông tin điện tử… cần có bộ lọc chặt chẽ hơn để loại bỏ các quảng cáo thuốc lá, đồng thời có thể gợi ý, đề xuất các đường dẫn, video tuyên truyền phòng chống tác hại của thuốc lá đối với các tìm kiếm về thuốc lá và sử dụng thuốc lá…
– Thực thi nghiêm minh các quy định của pháp luật hiện hành về phòng chống tác hại của thuốc lá
Qua thực tiễn việc thay đổi nhận thức về phòng chống tác hại của rượu bia thời gian qua với các quy định xử phạt nghiêm khắc, có thể thấy việc phòng chống tác hại của thuốc lá cũng cần phải làm quyết liệt, chặt chẽ, nghiêm minh hơn nữa; có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan liên ngành; sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc kiểm soát thuốc lá từ góc nhìn về quyền trẻ em.
Hơn nữa, ngoài việc có chế tài xử phạt đủ mạnh và thực thi nghiêm minh, tránh để xảy ra tiêu cực, làm yếu hệ thống hành pháp… thì chính những người lớn cũng cần nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với thanh thiếu niên. Khi những “người lớn” còn tìm cách bao biện, yêu cầu được tôn trọng sở thích cá nhân, như là quyền của cá nhân đối với việc sử dụng thuốc lá, hoặc biết là không nên nhưng vẫn hút thuốc, và hút thuốc ở cả những nơi bị cấm hút thuốc…, thì rất khó để thuyết phục được trẻ em về ý thức phòng chống tác hại thuốc lá.
Trước hết, các chính trị gia, đại biểu Quốc hội, những người nổi tiếng, người của công chúng, người có nhiều ảnh hưởng trên mạng xã hội, những người làm cha mẹ, những người có uy tín trong gia đình, dòng tộc… phải đi đầu trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về phòng chống tác hại của thuốc lá, có trách nhiệm kiên quyết nói không với thuốc lá. Bên cạnh đó, người dân, cộng đồng mạng, khán giả… cũng phải thể hiện tiếng nói nhất định và mạnh mẽ đối với các hành vi dù vô tình hay cố ý tuyên truyền, làm lan truyền các nội dung “tiếp tay” cho việc sử dụng thuốc lá.
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là cán bộ, công chức, viên chức phải hiểu rõ nội dung, yêu cầu phòng chống tác hại của thuốc lá, và chịu trách nhiệm cụ thể trong việc bảo vệ môi trường không khói thuốc, nghiêm chỉnh chấp hành tại các địa điểm cấm hút thuốc lá theo luật định.
– Sửa đổi, bổ sung Luật Phòng chống tác hại thuốc lá năm 2012
Cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Luật Phòng chống tác hại thuốc lá năm 2012 cho phù hợp với thực tiễn đời sống hiện nay. Luật cần bổ sung các định nghĩa khái niệm liên quan đến các sản phẩm thuốc lá thế hệ mới; quy định cụ thể việc kiểm soát, quản lý các sản phẩm thuốc lá điện tử, thuốc lá làm nóng…; và làm rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc nghiên cứu, đánh giá, kiểm soát nguồn cung, thực thi chính sách, pháp luật và tuyên truyền mức độ nguy hại từ việc tiêu thụ thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng… đối với người sử dụng nói chung và với trẻ em nói riêng ở nước ta. Ví dụ như việc tăng độ tuổi được mua và sử dụng thuốc lá từ 18 lên 21 tuổi[31], và nghiêm cấm bán lẻ điếu thuốc lá…
Trong trường hợp cần thiết, có thể sử dụng kỹ thuật một luật sửa nhiều luật để sớm bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phòng chống tác hại thuốc lá. Một đạo luật phòng chống tác hại thuốc lá với các quy định, chế tài nghiêm khắc hơn, được thực thi hiệu lực, hiệu quả sẽ có ích trong việc bảo vệ thế hệ tương lai của chúng ta; góp phần từng bước xây dựng, hình thành “văn hoá không hút thuốc lá”. Vì một thế giới ngày mai tươi sáng, phát triển bền vững, cần dành cho trẻ em một môi trường sống không khói thuốc lá ngay từ hôm nay./.
Nguyễn Anh Phương
[1] Viện Chiến lược và Chính sách y tế, Nghiên cứu về các hành vi nguy cơ đối với sức khỏe học sinh THCS và THPT tại Hà Nội, 2020.
[2] Bộ Y tế, Điều tra toàn cầu về sử dụng thuốc lá ở thanh thiếu niên năm 2007.
[3] Bộ Y tế, Điều tra toàn cầu về sử dụng thuốc lá ở thanh thiếu niên năm 2014.
[4] World Health Organization 2021, Tobacco control to improve child health and development: thematic brief.
[5] Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội thảo khoa học chia sẻ kết quả nghiên cứu về tình hình sử dụng thuốc lá trong học sinh 13-15 tuổi tại Việt Nam năm 2022, ngày 26/12/2022, Hà Nội.
[6] Eman Al-Sayed & Khadiga Ibrahim 2014, Second-hand tobacco smoke and children, toxicology and industrial health, vol. 30, no. 7.
[7] Trung tâm kiểm soát bệnh tật CDC, Khói thuốc lá gây hại sức khoẻ trẻ em.
[8] Thêm vào đó, ở các nước thu nhập thấp và trung bình, hơn 250 triệu trẻ em dưới 5 tuổi có nguy cơ không thể phát huy hết tiềm năng phát triển vốn có, do hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói. World Health Organization 2021, Tobacco control to improve child health and development: thematic brief.
[9] The UN, The 2030 Agenda for Sustainable Development, https://sdgs.un.org/2030agenda.
[10] Công ước khung về Kiểm soát Thuốc lá của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 17/3/2005.
[11] Nguyên văn: “Mục tiêu của Công ước này và các nghị định thư có liên quan là nhằm bảo vệ các thế hệ hiện nay và tương lai khỏi các hậu quả tàn phá về sức khỏe, xã hội, môi trường và kinh tế của việc tiêu thụ thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc bằng việc cung cấp một khuôn khổ cho các biện pháp kiểm soát thuốc lá do các Bên thực hiện ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế nhằm làm giảm đáng kể và liên tục tỷ lệ người sử dụng thuốc lá và phơi nhiễm với khói thuốc lá”.
[12] The Convention Secretariat, WHO FCTC 2020, The Guide for WHO FCTC Parties on including SDG Target 3.a in Voluntary National Reviews.
[13] Điều 24 Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.
[14] Điều 27 Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.
[15] Điều 28 Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.
[16] Điều 31 Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.
[17] Điều 32 Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.
[18] Điều 6 Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.
[19] Điều 17 Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.
[20] Điều 33 Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.
[21] Sonja von Eichborn 2021, Discover how sustainable development, children’s rights and tobacco control are linked, Tobacco Prevention & Cessation.
[22] WHO 2001, Tobacco and the rights of the child.
[23] Báo Tuổi trẻ, Chất gây nghiện núp bóng thuốc lá điện tử tấn công con em chúng ta: Lẽ nào bất lực?, https://tuoitre.vn/chat-nghien-nup-bong-thuoc-la-dien-tu-tan-cong-con-em-chung-ta-le-nao-bat-luc-20221208091517065.htm.
[24] HealthBridge, Pháp luật quốc tế về quản lý thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng.
[25] Nguyễn Hạnh Nguyên, Phan Thị Lan Phương 2018, Tăng thuế thuốc lá ở Việt Nam và kinh nghiệm cải cách thuế thuốc lá ở một số quốc gia, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 20 (372) kỳ 2.
[26] Bộ Y tế, WHO, HealthBridge, 2018, Hỏi đáp về thuế thuốc lá tại Việt Nam.
[27] WHO 2008, MPOWER: A policy package to reverse the tobacco epidemic.
[28] Nguyễn Hạnh Nguyên, Phan Thị Lan Phương 2018, tlđd.
[29] Lê Thị Thu, Nguyễn Hạnh Nguyên 2023, Lợi ích của tăng thuế thuốc lá – Kinh nghiệm ở một số quốc gia trên thế giới và bài học đối với Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 1+2/2023.
[30] Unfairtobacco.org 2015, Tobacco: Antisocial, unfair, harmful to the environment: Tobacco production and consumption as an example of the complexity of Sustainable Development Goals (SDGs).
[31] IANS 2021, “Tobacco-free India” a right of every child; COTPA amendments should be passed at the earliest.
(Bài viết cho Tổ chức HealthBridge Canada tại Việt Nam.
Bài viết này cũng đã được chỉnh sửa, bổ sung bởi nhóm tác giả, và được biên tập, xuất bản trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12 (484), tháng 6/2023)
Leave a Reply